Xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét
Ở nước ta, có hai loại ký sinh trùng sốt rét chính là Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Plasmodium falciparum hay gây sốt rét ác tính, còn Plasmodium vivax thường gây sốt rét cơn, tuy nhiên vẫn có trường hợp rơi vào ác tính.
Trong vùng dịch tễ sốt rét, việc chẩn đoán bệnh tương đối đơn giản, vì chỉ cần bị sốt rét cơn điển hình thì bệnh nhân sẽ đến ngay trạm y tế để kiểm tra máu và nhận thuốc đặc trị sốt rét.
Tuy nhiên triệu chứng bệnh sốt rét có khi không điển hình hoặc do người nhiễm là người từ nơi khác đến vùng dịch tễ rồi về lại nơi cư trú của mình, khi bệnh nhân sốt, nhập viện sẽ gây khó khăn trong việc chẩn đoán nếu không khai rõ những nơi mình đã đi qua cho bác sĩ khám bệnh. Đã có nhiều trường hợp tử vong rất đáng tiếc do phát hiện trễ.
Xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét trong máu là xét nghiệm rất cổ điển, cơ bản và dễ thực hiện, dễ triển khai xuống các đơn vị y tế cơ sở.
Chỉ cần lấy một giọt máu đầu ngón tay bệnh nhân để làm phết máu ngoại biên (giọt dày và giọt mỏng), cố định trên lam và nhuộm giemsa để tìm ký sinh trùng dưới kính hiển vi.
Tại các vùng dịch tễ sốt rét hoặc tại các bệnh viện tuyến trên, khi tiếp nhận bệnh nhân đến từ vùng dịch tễ, các bác sĩ phải cho làm ngay Xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét này như một xét nghiệm cơ bản lúc nhập viện.
Xem thêm: Trung tâm xét nghiệm ký sinh trùng
Tác nhân chủ yếu gây ra sốt rét là loài ký sinh trùng sốt rét thuộc chi Plasmodium. Có 5 loài ký sinh trùng thuộc chi này truyền nhiễm bệnh sốt rét ở người, bao gồm:
- Plasmodium falciparum: cực kỳ nguy hiểm.
- Plasmodium malariae: gây bệnh nhưng nguy cơ tử vong thấp hơn.
- Plasmodium ovale: cũng gây bệnh nhưng ít biến chứng tử vong.
- Plasmodium vivax: nguy hiểm ngang với loài Plasmodium falciparum.
- Plasmodium knowlesi: gây sốt rét trên loài khỉ, thường hoạt động ở khu vực Đông Nam Á nhưng vẫn có thể lây bệnh cho con người.
Trung gian chứa ký sinh trùng gây bệnh là muỗi Anopheles. Các loài ký sinh trùng chỉ tồn tại trong cơ thể của muỗi và trong máu người chứ không lưu lạc tự do bên ngoài môi trường. Tổng cộng có tới hơn 422 loài muỗi Anopheles, trong đó có 40 loài là trung gian chính truyền bệnh sốt rét.
Triệu chứng bệnh Bệnh sốt rét
Mỗi loài ký sinh trùng khác nhau sẽ có thời gian ủ bệnh tới khi biểu hiện các triệu chứng lâm sàng khác nhau. Cụ thể:
- Plasmodium falciparum: từ 9 - 14 ngày (trung bình là 12 ngày).
- Plasmodium malariae: từ 20 đến thậm chí vài tháng.
- Plasmodium vivax: từ 12 - 17 ngày (trung bình là 14 ngày).
- Plasmodium ovale: từ 11 ngày đến 10 tháng.
Nếu bị sốt rét do lây nhiễm từ việc truyền máu thì thời gian ủ bệnh còn tùy theo lượng ký sinh trùng tồn tại trong máu truyền vào, nhưng trung bình thời gian ủ bệnh khá ngắn chỉ kéo dài trong vài ngày là bắt đầu có triệu chứng.
Dựa trên phân loại của Tổ chức Y tế thế giới WHO về bệnh sốt rét, có 2 mức độ lâm sàng của bệnh sốt rét đang lưu hành tại Việt Nam đó là sốt rét thông thường và sốt rét ác tính. Mỗi thể lâm sàng lại có các dấu hiệu khác nhau và phương pháp Xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét khác nhau
Sốt rét thông thường là khi bệnh nhân chưa xuất hiện các biến chứng và được nhận diện thông qua các dấu hiệu sau:
- Cơn sốt sơ nhiễm: người bệnh phát giác cơn sốt đầu tiên và thường không đặc trưng, bệnh nhân có thể bị sốt cao kéo dài trong khoảng vài ngày.
- Cơn sốt điển hình: người bệnh trải qua 3 giai đoạn của một cơn sốt rét điển hình:
+ Rét run: toàn thân rét run, nổi da gà, môi tái và giai đoạn này kéo dài từ 30 phút tới 2 giờ đồng hồ.
+ Sốt nóng: tình trạng rét run giảm dần, thay vào đó cơ thể nóng lên, đo nhiệt độ có thể lên tới 40 - 41 độ C kèm theo các biểu hiện như thở nhanh, mặt đỏ, mạch nhanh, khát nước, đau đầu, da khô nóng, cảm thấy đau tức nhẹ vùng gan lách. Thời gian kéo dài của giai đoạn này là từ 1 - 3 giờ.
+ Vã mồ hôi: thân nhiệt hạ nhanh, khát nước, mạch bình thường, giảm nhức đầu, vã mồ hôi, cảm thấy dễ chịu hơn.
- Cơn sốt thể cụt: hay gặp ở những bệnh nhân đã từng bị sốt rét nhiều năm trước đó. Đặc điểm là chỉ thấy rét run, sốt không thành cơn và mỗi lần sẽ bị sốt trong khoảng 1 - 2 giờ.
- Thể ký sinh trùng lạnh: hay còn gọi là người lành chứa ký sinh trùng, khi xét nghiệm máu những bệnh nhân này phát hiện thấy có ký sinh trùng nhưng không có biểu hiện sốt. Người bệnh vẫn có khả năng lao động cũng như sinh hoạt bình thường. Thể ký sinh trùng lạnh gặp nhiều ở các vùng rốt rét lưu hành nặng.
- Mỗi loại ký sinh trùng sẽ gây nên các chu kỳ sốt rét khác nhau, ví dụ như:
- Sốt do Plasmodium vivax: cứ cách 1 ngày lại lên cơn sốt 1 lần.
- Sốt do Plasmodium falciparum: sốt liên tục hàng ngày và cơn sốt thường có tính chất nghiêm trọng, ác tính, nếu không có biện pháp xử lý thì nguy cơ tử vong cao.
- Sốt do Plasmodium ovale và Plasmodium malariae: cách 3 ngày lại sốt 1 cơn.
Sốt rét ác tính là khi bệnh nhân đã bộc lộ các biến chứng:
- Thể não: đây là triệu chứng chiếm tới 80 - 95% trong số các ca bị sốt rét ác tính
+ Rối loạn ý thức (mê sảng, li bì hoặc vật vã, nói nhảm), mất ngủ nhiều, sốt cao liên tục, đầu đau nhức dữ dội, nôn mửa hoặc thường xuyên bị tiêu chảy.
+ Hội chứng tâm thần: hôn mê (đột ngột hoặc xảy ra từ từ, dần chìm vào hôn mê sâu), co giật giống như bị động kinh, rối loạn cơ vòng, giãn đồng tử.
+ Suy thận, đi tiểu ít hoặc vô niệu, nồng độ ure huyết cao, tán huyết ồ ạt gây tiểu huyết sắc tố.
+ Biến chứng tử vong của thể não khá cao có thể lên tới 20 - 50%.
- Thể giá lạnh: huyết áp giảm, ra nhiều mô hôi, toàn thân lạnh, da xanh tái, đau đầu.
- Thể tiểu huyết sắc tố: nguyên nhân là do hiện tượng tán huyết ồ ạt với diễn biến nặng, có thể gây nên suy thận, truỵ tim mạch. Các biểu hiện điển hình bao gồm:
+ Bệnh nhân sốt dữ dội theo từng cơn.
+ Nôn khan hoặc nôn ra dịch màu vàng kèm theo đau lưng.
+ Vàng niêm mạc, vàng da.
+ Nước tiểu màu nâu đỏ, sau chuyển thành màu nước vối đặc hoặc có màu cà phê, tiểu ít dần hoặc vô niệu.
+ Huyết sắc tố và hồng cầu giảm mạnh.
+ Thiếu oxy, thiếu máu cấp.
- Thể gan mật:
+ Da và mắt chuyển màu vàng.
+ Nước tiểu và phân màu vàng chứa nhiều muối mật.
+ Buồn nôn và nôn.
+ Rơi vào hôn mê.
- Thể phổi:
+ Bệnh bị thở nhanh, khó thở, tím tái.
+ Khạc ra bọt có màu hồng.
+ Đáy phổi xuất hiện nhiều ran ngáy, ran ẩm.
- Thể tiêu hoá: nôn mửa, đau bụng, hạ thân nhiệt, tiêu chảy cấp.
- Sốt rét ở trẻ em:
+ Những trẻ trên 6 tháng tuổi có nguy cơ cao mắc sốt rét vì không còn khả năng được bảo vệ bởi hệ miễn dịch của mẹ.
+ Biểu hiện khi trẻ bị sốt rét: nôn, bụng chướng, tiêu chảy, sốt cao liên tục, dấu hiệu màng não thậm chí co giật, gan lách to và khả năng tử vong cao.
- Sốt rét ở phụ nữ có thai: đây là đối tượng dễ gặp sốt rét ác tính và nguy cơ cao sẽ dẫn tới sảy thai, thai lưu hoặc bị sinh non.
- Sốt rét bẩm sinh:
+ Tình trạng này khá hiếm gặp, thường là do mẹ bị sốt rét khi mang thai khiến cho tế bào nhau thai bị tổn thương.
+ Trẻ có biểu hiện sốt rét ngay khi chào đời: sốt, quấy khóc, gan lách to, vàng da.