Dấu hiệu bị nhiễm giun sán
Giun, sán là các động vật đa bào, sống ký sinh trong thân thể động vật và con người chính yếu ở trục đường tiêu hóa như: tá tràng, ruột non, đại tràng,... Bên cạnh đó giun/sán còn ký sinh lạc chỗ ở những cơ quan khác như: tim, phổi, mắt, cơ,.... Lúc chúng ở giai đoạn trưởng thành thường có kích thước to, như giun đũa mang chiều dài khoảng trong khoảng 15 - 30cm.
Tỷ lệ nhiễm giun, sán ở nước ta khá cao, ở nam giới tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn hơn đàn bà.
Nhiễm giun, sán được chia thành hai mẫu chính: Giun, sán ký sinh trong thành ruột và giun, sán ký sinh ngoài ruột (ở những cơ quan nội tạng, trong máu,...).
1.1. Nguyên cớ gây nhiễm giun sán
Với 2 nguyên cơ chính gây nhiễm giun, sán:
Điều kiện khí hậu ở nước ta là nhiệt đới ẩm, gió mùa rất tiện lợi cho những loại giun, sán sinh sôi và vững mạnh.
Thực phẩm bẩn, thực phẩm không rõ căn nguyên, mất vệ sinh, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là nguyên cớ chính dẫn tới nhiễm giun, sán.
Nhiễm giun, sán cốt yếu qua tuyến đường tiêu hóa do những lề thói kém vệ sinh như: mút tay, cắn móng tay, ko rửa tay trước lúc ăn và sau khi đi vệ sinh, uống nước chưa đun sôi, ăn thực phẩm sống, rau sống,...
Xem thêm: Mắt bị vàng là triệu chứng của bệnh gì?

1.2. Triệu chứng nhiễm giun sán
Trên những người bị nhiễm giun, sán, các triệu chứng nhiễm giun, sán biểu đạt rõ rệt khi cơ thể sở hữu những phản ứng khi giun ký sinh hoặc tiêu dùng chất dinh dưỡng của thân thể. Những triệu chứng thường gặp là: suy dinh dưỡng, tay chân còi cọc, bụng bủng beo, đau bụng, ỉa chảy thường xuyên, ngứa hậu môn, buồn nôn,... Trường hợp giun ký sinh lạc chỗ, lên mắt, não, bao tử hoặc lúc bị nhiễm quá nhiều giun với thể chui ra theo đường mồm.

1.3. Tác hại của việc nhiễm giun, sán
Ảnh hưởng của giun, sán đối sở hữu cơ thể như sau:
- Giun, sán dùng chất dinh dưỡng của thân thể, chất sắt trong hồng cầu, những thành phần protein cấu tạo nên tế bào.
- Giun, sán kí sinh trong đường ruột, gây chảy máu dẫn tới xuất huyết con đường ruột gây thiếu máu.
- Giun, sán làm kém tiếp thu chất dinh dưỡng trong đường ruột, gây cảm giác chán ăn, no tương đối, tiêu hóa kém, cơ thể tiều tụy, thiếu chất.
Xét nghiệm giun sán là xét nghiệm được chỉ định trong chẩn đoán và phát hiện bệnh lý nhiễm giun sán ở người. Với 2 lần xét nghiệm giun sán chính là xét nghiệm máu và xét nghiệm phân.
2.1. Xét nghiệm máu
Xét nghiệm máu dưới sự xuất hiện kháng thể của ký sinh trùng trong máu người bệnh . Ví như kết quả dương tính có kháng thể ký sinh trùng, người bệnh nhiễm giun, sán. Trái lại, kết quả âm tính đồng nghĩa có người bệnh khỏe mạnh, không nhiễm giun, sán. Xét nghiệm này được sử dụng phổ biến trong chẩn đoán nhiễm ký sinh trùng ở người.

2.2. Xét nghiệm phân
Xét nghiệm phân là xét nghiệm được thực hành để tìm trứng giun, sán với trong phân người bệnh trong khoảng đó đưa ra kết luận. Tuy nhiên, với các loại giun, sán khác nhau thường với những xét nghiệm khác nhau. Thí dụ, khi có ấu trùng giun lươn thường sử dụng xét nghiệm dịch màng phổi hoặc dùng cách thức nội soi trong tìm giun, sán lạc chỗ.
Xét nghiệm giun, sán còn được hài hòa với siêu âm, chụp cắt lớp, CT-Scan,... Trong chẩn đoán bệnh lý nhiễm giun sán.
Xét nghiệm giun sán được chỉ định trong rà soát tầm soát giun, sán ở những đối tượng có nguy cơ nhiễm bệnh cao như:
- Trẻ thơ đang ở độ tuổi đi học, có tỷ lệ nhiễm giun, sán cao.
- Nữ giới sở hữu thai và đang nuôi trẻ em.
- Người làm việc trong môi trường nguy cơ nhiễm giun sán cao như: hầm, mỏ, viên chức vệ sinh, nuôi trồng thủy, hải sản,...
Ngoài ra, khi thân thể xuất hiện những triệu chứng, dấu hiệu nghi ngờ nhiễm giun, sán nặng nên đi khám và thực hiện những xét nghiệm kiểm tra sức khỏe để sở hữu các giải pháp điều trị kịp thời.
4.1. Đối mang bệnh phẩm là dòng máu
Dùng lượng máu lấy trong khoảng tĩnh mạch trên tay người bệnh. Thứ tự thực hiện lấy loại xét nghiệm được tiến hành cụ thể như sau:
- Sát trùng vị trí lấy máu bằng cồn y tế.
- Tiêu dùng miếng dây garo buộc quanh đó cánh tay để giúp duy trì sức ép, song song tránh lượng máu lưu chuẩn y tĩnh mạch để vị trí tĩnh mạch lấy máu sẽ căng phồng lên do máu bị ứ lại. Khi này việc đâm kim vào tĩnh mạch lấy máu tiện lợi hơn.

- Sử dụng kim y tế nhỏ đâm vào vị trí tĩnh mạch đã xác định ban đầu, lấy 1 lượng máu vừa đủ.
- Sau đấy gỡ dây garo để tuần hoàn máu trở lại bình thường.
- Rút kim và dán miếng bông hoặc miếng băng cá nhân để cầm máu.
- Lượng máu chung cuộc thu được được để trong các ống thử chuyên dụng và ko cất những chất chống đông.
4.2. Khi mang loại bệnh phẩm là phân
Sử dụng thiết bị lấy phân của bệnh nhân, lấy 1 lượng phân mang dấu hiệu bệnh lý nhiễm giun, sán như: nhầy, lợn cợn, xuất huyết,... Cho vào lọ xét nghiệm, đậy kín. Sau đấy gửi bệnh phẩm đến phòng xét nghiệm càng nhanh càng tốt.